Đạt được phạm vi và phù hợp chiến lược
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ xác định chiến lược chuỗi cung ứng và giải thích cách tạo ra sự phù hợp chiến lược giữa chiến lược cạnh tranh của công ty và chiến lược chuỗi cung ứng của nó ảnh hưởng đến hiệu suất như thế nào. Chúng tôi cũng đề cập về tầm quan trọng của việc mở rộng phạm vi sự phù hợp chiến lược từ một hoạt động trong công ty đến tất cả các giai đoạn của chuỗi cung ứng.
- Tính cạnh tranh và các chiến lược của chuỗi cung ứng
Chiến lược cạnh tranh của một công ty xác định các nhu cầu của khách hàng mà công ty tìm cách đáp ứng thông qua các sản phẩm và dịch vụ của mình. Ví dụ, Walmart hướng tới việc cung cấp nhiều loại sản phẩm có chất lượng phù hợp với mức giá thấp. Hầu hết các sản phẩm được bán tại Walmart là thông dụng (mọi thứ từ đồ gia dụng đến quần áo) và có thể mua bất cứ đâu. Những gì Walmart cung cấp là giá thấp và sản phẩm luôn có sẵn. McMaster-Carr bán các sản phẩm bảo trì, sửa chữa và vận hành (MRO). Nó cung cấp hơn 500.000 sản phẩm thông qua catalog và trang web. Chiến lược cạnh tranh của nó được xây dựng dựa trên việc cung cấp cho khách hàng sự tiện lợi, sẵn sàng và khả năng đáp ứng. Với sự tập trung vào khả năng đáp ứng này, McMaster không cạnh tranh dựa trên giá thấp. Rõ ràng, chiến lược cạnh tranh tại Walmart khác với chiến lược tại McMaster.
Chúng ta cũng có thể đối chiếu Blue Nile, với mô hình bán lẻ kim cương trực tuyến, so với Zales, công ty bán đồ trang sức kim cương thông qua các cửa hàng bán lẻ. Blue Nile đã nhấn mạnh sự đa dạng của các loại kim cương có sẵn trên trang web của mình và thực tế là lợi nhuận của nó thấp hơn đáng kể so với đối thủ cạnh tranh truyền thống. Tuy nhiên, khách hàng phải đợi để lấy đồ trang sức của mình và không có bất kỳ cơ hội nào để chạm vào và xem nó trước khi mua (Blue Nile có cung cấp thời gian hoàn trả là 30 ngày). Ngược lại, tại Zales, khách hàng có thể bước vào cửa hàng bán lẻ, được nhân viên bán hàng giúp đỡ và rời đi ngay lập tức với một chiếc nhẫn kim cương. Tuy nhiên, số lượng mặt hàng có sẵn tại cửa hàng Zales là có hạn. Trong khi Blue Nile cung cấp hơn 90.000 viên đá trên trang web của mình, thì một cửa hàng Zales điển hình chỉ cung cấp chưa đến một nghìn viên.
Trong mỗi trường hợp, chiến lược cạnh tranh được xác định dựa trên mức độ ưu tiên của khách hàng về giá thành, thời gian giao hàng, sự đa dạng và chất lượng sản phẩm. Khách hàng của McMaster-Carr đặt trọng tâm vào sự đa dạng của sản phẩm và thời gian đáp ứng hơn là giá thành. Ngược lại, khách hàng của Walmart lại chú trọng nhiều hơn đến giá thành. Khách hàng của Blue Nile, mua hàng trực tuyến, rất chú trọng vào sự đa dạng của sản phẩm và giá thành. Khách hàng mua trang sức tại Zales quan tâm nhiều đến thời gian phản hồi nhanh chóng và sự trợ giúp trong việc lựa chọn sản phẩm. Do đó, chiến lược cạnh tranh của một công ty sẽ được xác định dựa trên các ưu tiên của khách hàng. Chiến lược cạnh tranh nhắm vào một hoặc nhiều phân khúc khách hàng và nhằm cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Để xem xét mối quan hệ giữa chiến lược cạnh tranh và chuỗi cung ứng, chúng ta bắt đầu với chuỗi giá trị cho một tổ chức điển hình, trong Hình 2-1.
Chuỗi giá trị bắt đầu với việc phát triển sản phẩm mới, tạo ra các thông số kỹ thuật cho sản phẩm. Tiếp thị và bán hàng tạo ra nhu cầu bằng cách quảng bá các ưu tiên của khách hàng mà các sản phẩm và dịch vụ sẽ đáp ứng. Tiếp thị cũng mang giá trị đóng góp của khách hàng để phát triển sản phẩm mới. Các hoạt động thì chuyển đổi đầu vào thành đầu ra để tạo ra sản phẩm theo các thông số kỹ mới. Đối với việc phân phối hoặc mang sản phẩm đến khách hàng hoặc mang khách hàng đến với sản phẩm. Trong khi, dịch vụ với mục đích đáp ứng các yêu cầu của khách hàng trong hoặc sau khi bán hàng. Đây là những quy trình hoặc chức năng cốt lõi phải được thực hiện để bán hàng thành công. Các chức năng như tài chính, kế toán, công nghệ thông tin và nguồn nhân lực sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của chuỗi giá trị.
Để thực hiện chiến lược cạnh tranh của công ty, tất cả các chức năng này đều đóng một vai trò nhất định và mỗi chức năng phải phát triển chiến lược riêng của mình. Ở đây, chiến lược đề cập đến những gì mà mỗi quy trình hoặc chức năng sẽ cố gắng thực hiện tốt nhất có thể.
Chiến lược phát triển sản phẩm chỉ rõ danh mục các sản phẩm mới mà một công ty sẽ cố gắng phát triển. Nó cũng quyết định liệu nỗ lực phát triển sẽ được thực hiện trong nội bộ hay thuê ngoài. Chiến lược tiếp thị và bán hàng chỉ rõ phân khúc thị trường và sản phẩm sẽ được định vị, định giá và quảng bá như thế nào. Chiến lược chuỗi cung ứng xác định bản chất của việc mua nguyên liệu, vận chuyển nguyên vật liệu đến và đi từ công ty, sản xuất sản phẩm hoặc hoạt động để cung cấp dịch vụ và phân phối sản phẩm cho khách hàng, cùng với bất kỳ dịch vụ tiếp theo và đặc tả về các quy trình này sẽ được thực hiện tại chỗ hay thuê ngoài. Chiến lược chuỗi cung ứng chỉ rõ những chức năng hoạt động, phân phối và dịch vụ, dù được thực hiện trong nhà hay thuê ngoài, cần phải làm tốt những gì. Chiến lược chuỗi cung ứng bao gồm đặc tả về cấu trúc rộng của chuỗi cung ứng và cái mà nhiều người thường gọi là “chiến lược nhà cung cấp”, “chiến lược hoạt động” và “chiến lược hậu cần”. Ví dụ: quyết định ban đầu của Dell là bán trực tiếp, quyết định năm 2007 bắt đầu bán PC thông qua người bán lại và quyết định sử dụng các nhà sản xuất theo hợp đồng của Cisco xác định cấu trúc rộng rãi của chuỗi cung ứng và tất cả đều là một phần trong chiến lược chuỗi cung ứng của họ. Chiến lược chuỗi cung ứng cũng bao gồm các quyết định thiết kế liên quan đến hàng tồn kho, vận chuyển, phương tiện vận hành và luồng thông tin. Ví dụ: quyết định của Amazon xây dựng nhà kho để dự trữ một số sản phẩm và tiếp tục sử dụng các nhà phân phối làm nguồn cung cấp các sản phẩm khác là một phần trong chiến lược chuỗi cung ứng của Amazon. Tương tự, quyết định của Toyota về việc có các cơ sở sản xuất tại mỗi thị trường chính của nó là một phần trong chiến lược chuỗi cung ứng của nó.
Để một công ty thành công, tất cả các chiến lược chức năng phải hỗ trợ lẫn nhau và chiến lược cạnh tranh. Ví dụ: thành công của Seven-Eleven có thể liên quan đến sự phù hợp giữa các chiến lược chức năng. Tiếp thị tại Seven-Eleven đã nhấn mạnh sự tiện lợi dưới hình thức dễ dàng tiếp cận các cửa hàng và mặt hàng luôn có sẵn của nhiều loại sản phẩm và dịch vụ. Việc phát triển sản phẩm mới tại Seven-Eleven không ngừng bổ sung các sản phẩm và dịch vụ, chẳng hạn như dịch vụ thanh toán hóa đơn thu hút khách hàng và khai thác cơ sở hạ tầng thông tin tuyệt vời và thực tế là khách hàng thường xuyên ghé thăm Seven-Eleven. Hoạt động và phân phối tại Seven-Eleven tập trung vào việc có mật độ cửa hàng cao, hoạt động rất nhạy bén và cung cấp cơ sở hạ tầng thông tin tuyệt vời. Kết quả là một chu kỳ linh hoạt, trong đó cơ sở hạ tầng chuỗi cung ứng được khai thác để cung cấp các sản phẩm và dịch vụ mới làm tăng nhu cầu và đến lượt nó, nhu cầu tăng lên sẽ giúp các hoạt động cải thiện mật độ cửa hàng, khả năng đáp ứng trong việc bổ sung và cơ sở hạ tầng thông tin dễ dàng hơn.
(Còn tiếp tục)
Bài VIết Liên Quan
-
Giảm 70% Thời Gian Quản Lý Kho: Liên Việt Xanh Đã Thành Công Cùng HPT WMS22 December, 2022/0 Comments
-
7 bước tiếp cận Phần mềm quản lý kho hàng (HPT WMS)20 October, 2022/
-
Quản Lý Chuỗi Cung Ứng (SCM) Là Gì ?1 September, 2021/
-
Thương Mại Điện Tử Góp Phần Vào sử Phát Triển chuỗi Cung Ứng1 September, 2021/
-
LỢI THẾ CẠNH TRANH TRONG CHUỖI CUNG ỨNG CỦA BẠN29 March, 2021/
-
7 BƯỚC TIẾP CẬN TRIỂN KHAI HỆ THỐNG QUẢN LÝ KHO NĂM 202111 March, 2021/
-
Tìm Hiểu Về Trung Tâm Phân Phối & Kho20 December, 2020/
-
Tầm quan trọng của License Plate trong môi trường kho18 November, 2020/
-
Thiết kế và bố trí nhà kho: 6 yếu tố cơ bản8 October, 2020/
-
Tìm Hiểu Cross Docking7 October, 2020/
-
SKU8 September, 2020/